Nghiên cứu – Chiến thắng ung thư nhờ chế độ dinh dưỡng

“Tôi rất tiếc, nhưng anh/chị đã bị ung thư.” Những lời này từ bác sỹ có thể gây khiếp sợ cho bất cứ bệnh nhân nào. Liệu ung thư có thể điều trị một cách hiệu quả bằng chế độ dinh dưỡng không ? Câu trả lời sẽ được giải đáp trong bài viết rất dài sau đây mà đội ngũ phòng khám Việt Úc sưu tầm và biên soạn lại dựa trên ý kiến chuyên môn của Giáo sư – Nhà khoa học Patrick Quillin

Bệnh ung thư và chế độ dinh dưỡng

Tin vui là liệu pháp dinh dưỡng có thể làm tăng đáng kể chất lượng và thời gian sống cho bệnh nhân ung thư cũng như tăng cơ hội thuyên giảm hoàn toàn bệnh. Hơn thế nữa, một lối sống lành mạnh bao gồm một chế độ ăn bổ dưỡng, tập thể dục thường xuyên, thái độ sống tích cực và tránh các độc tố có thể ngăn chặn nhiều bệnh ung thư.

Thuốc không mang lại hiệu quả cao với ung thư

Và bây giờ là tin xấu. Các loại thuốc y khoa thông thường không mang lại tỉ lệ thành công cao trong việc điều trị bệnh. Cho đến đầu thế kỷ này, ung thư sẽ trở thành nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ. Trong suốt 26 năm qua, NCI (viện nghiên cứu ung thư quốc gia Hoa Kỳ) đã chi 37 tỉ đô la vào hoạt động nghiên cứu với kết quả cho thấy tỉ lệ ung thư và tử vong do ung thư đang tăng lên.

Rõ ràng, thuốc không thể trở thành “thần dược” chữa trị ung thư khi mà bệnh nhân vẫn sống với nước đồ uống có ga, ô nhiễm và căng thẳng.

Vào ngày 23/11/1971, Tổng thống Richard M. Nixon đã công khai tuyên bố “cuộc chiến chống ung thư” và hứa hẹn về liệu pháp chữa trị vào dịp Quốc Khánh 200 năm của nước mỹ vào năm 1976. Tuy nhiên, tầm cuối năm 1991, một nhóm 60 bác sỹ và các nhà khoa học đã tổ chức một cuộc họp báo và đưa ra nhận định: “Tuyên bố về bệnh ung thư với việc lặp đi lăp lại rằng chúng ta đang chiến thắng căn bệnh ung thư đang khiến dư luận băn khoăn. … Khả năng chữa và điều trị hầu hết các căn bệnh ung thư của chúng ta chưa thực sự được cải thiện đáng kể.”

Trong bài viết này, tôi sẽ tóm tắt những lý do đối với sự thất bại trong cuộc chiến chống ung thư và đưa ra hướng giải quyết phù hợp để cải thiện kết quả đối với 2,5 triệu bệnh nhân ung thư đang được điều trị ở Mỹ hiện nay.

Ung thư và hoá trị

Trong những nghiên cứu ban đầu, các kỹ thuật như phẫu thuật, xạ trị hay hóa trị có vẻ như là phương pháp tốt nhất để chữa trị ung thư. Mục đích là cắt bỏ, đốt và phá vỡ các tế bào bất thường. Trong khi các phương pháp này có thể tạm thời giảm bớt độ lớn của khối u thì thực sự chúng không chữa được bệnh. Chỉ bằng cách thay đổi những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn tới căn bệnh ung thư bệnh nhân mới có thể hi vọng hồi phục sức khỏe.

Các bác sỹ hiểu rằng loại trừ ung thư bắt đầu từ việc thay đổi các điều kiện làm tăng trưởng khối u chứ không chỉ là áp dụng các trị liệu gây độc tế bào để tiêu diệt tế bào ung thư. Đây là một ví dụ tương tự: Nấm mọc trên vỏ cây nhờ có những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, độ ẩm và bóng tối. Bạn có thể cắt bỏ, đốt hay làm độc nấm nếu muốn. T

Thế nhưng một khi các điều kiện thuận lợi này vẫn tồn tại, nấm sẽ tiếp tục nảy nở. Tương tự như vậy, bệnh ung thư phát triển trong cơ thể người khi gặp các điều kiện phù hợp. Các yếu tố được dẫn chứng bằng tài liệu rằng cơ sở của việc hình thành khối u bao gồm chất độc, suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng, suy nhược thần kinh và lượng đường trong máu cao.

Các yếu tố nguyên nhân khác bao gồm việc giảm pH, dysbiosis (vi khuẩn bất thường trong ruột), suy giảm hoạt động của tuyến giáp, không đủ DHEA, enzyme và axit hydrochloric; các ký sinh trùng. Trừ khi các chất cảm ứng ung thư này được hiệu chỉnh, còn không phương pháp điều trị gây độc tế bào vẫn sẽ bị thất bại.

Cách tốt nhất để khắc phục vấn đề là điều trị bằng chế độ dinh dưỡng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: mặc dù chế độ dinh dưỡng là một phần không thể thiếu trong chương trình điều trị của mỗi bệnh nhân ung thư, nhưng một mình liệu pháp dinh dưỡng không thể đủ cho hầu hết các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối.

Lý do để áp dụng trị liệu bằng dinh dưỡng trong ung thư

Có rất nhiều lý do để áp dụng dinh dưỡng trị liệu trong điều trị ung thư, trong đó bao gồm:

Thiếu hụt dinh dưỡng

Việc thiếu hụt chất dinh dưỡng cho cơ thể có thể gây ra các hậu quả lớn, thậm chí nguy hiểm. Trên thực tế, có hơn 40% các bệnh nhân ung thư chết vì thiếu hụt dinh dưỡng chứ không phải vì bệnh ung thư.  Ung thư gây ra những bất thường trong quá trình chuyển hóa, giống như chiếc xe của bạn đang bị mắc kẹt trong đống băng vậy – bánh xe vẫn quay, động cơ vẫn tiêu thụ gas, nhưng xe lại không di chuyển tí nào. Tuy nhiên, bệnh nhân ung thư cũng thường ăn ít hơn trước khi bị bệnh.

Một lý do nữa là các khối u gây ra trạng thái tăng chuyển hóa và tiết ra một chất được gọi là cachectin làm giảm cảm giác thèm ăn. Liệu pháp hóa trị và xạ trị có thể gây ra chứng biếng ăn và các triệu chứng căng thẳng sinh học gây suy dinh dưỡng.

Các bệnh nhân ung thư cần nhiều Calo hơn người khỏe mạnh, tuy nhiên họ vẫn bị ốm yếu đi, điều này được gọi là hội chứng suy mòn. Việc giảm cân làm tăng các tỷ lệ tử vong đối với hầu hết các loại ung thư, trong khi nó cũng làm giảm các phản ứng tích cực của phương pháp hóa liệu.

Ngoài việc ăn uống hợp lý, thức ăn giàu dinh dưỡng, công thức dinh dưỡng đóng hộp, protein, muối hydrazine sulfate, enzim, giải trình tự DNA và các phương pháp khác có thể đảo ngược việc giảm cân của rất nhiều bệnh nhân ung thư. Nếu như các bệnh nhân ung thư giảm 10% hoặc hơn trọng lương cơ thể sau khi được chẩn đoán ung thư, các chiến lược dinh dưỡng khác là không liên quan cho đến khi vấn đề này được giải quyết.

Cảnh báo: Đừng lấp đầy dạ dày đang yếu bằng các loại vitamin khi các loại thức ăn giàu dinh dưỡng là quan trọng hơn.

Dinh dưỡng tối ưu

Ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng có thể nâng cao hiệu quả của các liệu pháp y học. Một số người lo ngại rằng các chất chống oxi hóa như Vitamin C, E và beta-carotene có thể vô hiệu hóa khả năng tiêu diệt khối u của liệu pháp hóa trị và xạ trị. Điều này là không đúng. Trong các nghiên cứu trên động vật lẫn con người, các chất chống oxi hóa làm tăng khả năng tiêu diệt ung thư của liệu pháp hóa trị và xạ trị đồng thời bảo vệ các mô chủ khỏi sự tổn thương.

Trong thực tế, các chất chống oxi hóa có rất nhiều lợi ích đối với liệu pháp hóa trị và xạ trị. Trong khi cả hai phương pháp này đều giảm độ lớn của khối u, chúng cũng gây ảnh hưởng đến các mô thông thường như tim, thận, niêm mạc ruột và tủy xương (nền tảng của hệ thống miễn dịch). May mắn là các vitamin có thể hỗ trợ cho các mô riêng lẻ.

Chẳng hạn, các nghiên cứu trên động vật chỉ ra rằng vitamin E bảo vệ tim chống lại các tác hại của hóa trị bằng Adriamycin đồng thời cho phép các loại thuốc chống ung thư tiếp tục phát huy tác dụng. Vitamin E cũng có hoạt tính chống ung thư độc đáo và chưa giải thích được.

Ở những chú chuột bị ung thư gan, vitamin C và K giúp tăng cường việc tiêu diệt khối u đồng thời giảm tổn thương các cơ quan từ sáu loại thuốc hóa trị liệu khác nhau. Vitamin A (isotretinoin) làm tăng khả năng tiêu diệt ung thư của các loại thuốc hóa trị vincristine và daunorubicin ở 24 bệnh nhân bị bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính. Ở các nghiên cứu trên động vật, tiêm vitamin C trước khi xạ trị có thể giúp bệnh nhân chịu đựng được quá trình điều trị.

Các nghiên cứu sơ bộ trên con người cũng cho thấy những hứa hẹn của liệu pháp bổ sung vitamin. Các bác sỹ ung bướu ở Phần Lan đã sử dụng các chất dinh dưỡng với liều cao (để bổ sung lượng thiếu hụt được đo bằng các xét nghiệm máu) cùng hóa trị và xạ trị cho các bệnh nhân ung thư phổi.

Thông thường, ung thư phổi có tiên lượng rất xấu với cơ hội sống sót không đến 1% sau 30 tháng điều trị bằng y khoa thông thường. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, 8 trong số 18 bệnh nhân (chiếm 44%) được bổ sung dinh dưỡng vẫn sống  thêm 72 tháng sau  khi áp dụng các liệu pháp hóa xạ trị.

Các chuyên gia ung thư kết luận rằng các bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng các chất chống ô xi hóa sớm nhất hầu như có thể sống lâu hơn hay có sự thuyên giảm bệnh.

Các chức năng miễn dịch mở rộng

Hệ thống miễn dịch là một tổ hợp phức tạp bao gồm 20 nghìn tỉ tế bào đa dạng hỗ trợ cơ thể tìm kiếm các tác nhân xâm nhập như vi khuẩn, vi rút, các tế bào ung thư. Khi bác sỹ thông báo rằng, “Chúng tôi nghĩ chúng tôi đã làm tất cả” có nghĩa là “Có ít hơn một tỉ tế bào ung thư trong cơ thể bạn không thể được phát hiện bằng các thiết bị chẩn đoán hiện nay.

Giờ chúng ta phải dựa vào hệ thống miễn dịch còn nguyên vẹn để tìm ra và tiêu diệt các tế bào ung thư còn lại.” May mắn thay, có rất nhiều các chất dinh dưỡng ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng các yếu tố miễn dịch vốn có thể chống lại ung thư.

Bỏ đói tế bào ung thư chọn lọc

Trong khi các chất dinh dưỡng thiết yếu hỗ trợ các biểu mô khỏe mạnh cho bệnh nhân, các loại thức ăn nhanh có thể nuôi dưỡng tế bào ung thư. Chẳng hạn, đường làm phát triển bệnh ung thư và ức chế hệ thống miễn dịch của bệnh nhân. Phần lớn các khối u được gọi là “chất chuyển hóa glucozơ cưỡng chế”, có nghĩa là chúng phải được nuôi dưỡng bằng đường.

Người Mỹ tiêu thụ khoảng 20%  calo từ đường tinh chế, nhưng không chịu nổi lượng như vậy do căng thẳng, béo phì, lối sống ít vận động và  ít lượng chất xơ đưa vào cơ thể thấp. Một nghiên cứu dịch tễ học các bệnh nhân ung thư tại 21 quốc gia cho thấy rằng tiêu thụ lượng đường lớn là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh ung thư vú.

Trong khi động vật được bổ sung chế độ ăn tương đương lượng calo từ cácbon thì các khối ung thư vú phát triển đáng kể ở nhóm sử dụng đường đơn giản nhiều hơn là nhóm tiêu thụ các loại cacbonhydrat phức tạp (tinh bột).

Có thể đẩy lùi sự gia tăng lượng đường trong máu ở bệnh nhân ung thư bằng cách ăn các loại thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp (nghĩa là đường từ từ được hấp thụ vào máu). Các thực phẩm có chỉ số đường huyết từ tốt nhất đến xấu nhất lần lượt là thịt, các loại hạt, dầu, rau, đậu, fructozo, ngũ cốc, tinh bột tinh chế (ví dụ bột mì trắng), trái cây và đường tinh luyện. Tốt nhất bệnh nhân ung thư nên tránh các loại đường trắng và thực phẩm ngọt nói chung và không bao giờ được ăn riêng thứ gì ngọt. Chẳng hạn, bệnh nhân có thể chỉ ăn một chút hoa quả sau bữa ăn có đầy đủ protein, cacbonhydrat phức hợp, chất xơ và chất béo.

Các chất dinh dưỡng làm chậm sự phát triển của bệnh ung thư 

Ở những nghiên cứu ban đầu, các chức năng dinh dưỡng đều có liên quan đến hội chứng thiếu hụt dinh dưỡng cổ điển – như vitamin C và bệnh sco-but, vitamin D và bệnh còi xương, niaxin và nứt da. Hiện nay các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các cấp độ khác nhau về chức năng của các loại chất dinh dưỡng. 

Chẳng hạn, trong khi 10 IU vitamin E được xem như RDA (Tiêu chuẩn về lượng cho phép dung nạp mỗi ngày) thì 800 IU có thể cải thiện các chức năng miễn dịch trên cơ thể người lớn tuổi khỏe mạnh. Trong khi 10 mg vitamin C có thể phòng chống bệnh sco-but ở hầu hết người lớn và tiêu chuẩn cho phép dung nạp mỗi ngày là 60mg thì 300mg được chứng minh có thể làm tăng trung bình 6 năm tuổi thọ ở nam giới.

Các tiêu chuẩn về lượng cho phép dung nạp mỗi ngày được áp dụng cho người khỏe mạnh và không có nhu cầu đăc biệt nào về dinh dưỡng từ các bệnh như rối loạn chuyển hóa, các bệnh mãn tính, chấn thương, sinh non hay các liệu pháp điều trị bằng thuốc.

Hầu hết các bệnh nhân ung thư cần nhiều hơn các chất dinh dưỡng so với tiêu chuẩn về lượng cho phép dung nạp mỗi ngày để hỗ trợ việc hồi phục. Có rất nhiều các thành phần dinh dưỡng trực tiếp và gián tiếp chống lại các tế bào ung thư.

Các cơ chế bao gồm việc ngăn ngừa sự hình thành chất gây ung thư, tăng giải độc, ức chế sự sao chép các tế bào bất thường là dấu hiệu của các căn bệnh ác tính, ngăn chặn phân chia tế bào tiền ung thư và tăng cường giao lưu thông tin từ tế bào đến tế bào.

Các chuyên gia nghiên cứu về ung thư tại trường đại học Y Khoa West Virginia ở Morgantown đã chia ngẫu nhiên 65 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp bang quang thành hai nhóm. Nhóm 1 nhận hàng ngày một lượng vitamin theo tiêu chuẩn RDA và giả dược.

Nhóm hai nhận lượng vitamin theo tiêu chuẩn RDA cộng thêm 40.000 IU Vitamin A, 100mg vitamin B6, 2000 mg vitamin C, 400 IU vitamin E và 90 mg kẽm. Sau 10 tháng, tỉ lệ tái phát khối u là 80% đối với nhóm 1 và 40% đối với nhóm 2. Khả năng xuất hiện trở lại khối u trong vòng 5 năm của nhóm 1 là 91% và nhóm 2 là 41%. Về cơ bản, chất dinh dưỡng được sử dụng với liều cao đã hạn chế sự xuất hiện trở lại của khối u đến 50%.

Trong một thí nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên tại bệnh viện Hoffer, Victoria, British Columbia, bác sỹ, tiến sỹ y khoa Abram Hoffer, tiến sỹ y khoa Linus Pauling đã hướng dẫn bệnh nhân ung thư tuân theo chế độ ăn uống với các thực phẩm chưa chế biến có hàm lượng chất béo, sữa và đường thấp kết hợp với vitamin và khoáng chất. Tất cả 129 bệnh nhân đều nhận chế độ chăm sóc dành cho người bị ung thư.

Nhóm kiểm soát bao gồm 31 bệnh nhân không nhận hỗ trợ về dinh dưỡng trung bình sống thêm được ít hơn sáu tháng. 98 bệnh nhân nhận chương trình ăn uống và bổ sung dinh dưỡng được phân thành ba nhóm: nhóm đáp ứng kém (19 bệnh nhân – 20%) sống thêm trung bình 10 tháng—tốt hơn 75% so với nhóm kiểm soát; nhóm đáp ứng tốt (47 bệnh nhân chiếm 48%) bị các loại ung thư khác nhau bao gồm ung thư máu, phổi, gan và tuyến tụy, sống thêm trung bình 6 năm; nhóm đáp ứng tốt nhất (32 phụ nữ chiếm 33%) bị ung thư cơ quan sinh sản (vú, cổ tử cung, buồng trứng, tử cung) đã sống lâu hơn 10 năm.

Nói cách khác, chế độ hỗ trợ dinh dưỡng đã làm tăng tuổi thọ các bệnh nhân lên 12 đến 21 lần đối với 80% bệnh nhân.

Các phân tích hồi cứu đã chỉ ra rằng dinh dưỡng trị liệu hỗ trợ rất tốt cho bệnh nhân ung thư. Trong số 200 bệnh nhân ung thư đã trải qua “thoái bộ tự phát”, 87% đã có sự thay đổi lớn trong chế độ ăn uống (ăn nhiều rau và ít thịt hơn), 55% sử dụng một số phương pháp giải độc (thảo dược, điều trị thải độc hoặc các phương pháp khác), 65% sử dụng phương pháp bổ sung dinh dưỡng. 

Trong số 1467 bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy không có bất cứ sự thay đổi nào về chế độ ăn uống, 146 (chiếm 10%) còn sống sau 1 năm trong khi 12 trong số 23 bệnh nhân bị ung thư tuyến tụy (chiếm 52%) ăn các thức ăn chay (chủ yếu là gạo nâu và rau với lượng nhỏ cá và thịt gia cầm) còn sống sau một năm.

Kết luận

Lý do thực sự cho thất bại trong cuộc chiến chống ung thư nằm ở một số suy nghĩ sai lầm. Chúng ta đều là những thực thể hữu hình và siêu hình vốn là một phần của quá trình chữa bệnh, cũng giống như một phần của căn bệnh.

Chúng ta cần nắm lấy phương pháp chữa ung thư hợp lý được thể hiện là có hiệu quả và gây hại tối thiểu lên các biểu mô bình thường. Chúng tôi khuyến khích việc đồng bộ các liệu pháp hồi phục như dinh dưỡng và các phương pháp hạn chế sự ảnh hưởng của các loại ung thư thông thường.

(Sưu tầm và Dịch bởi PHÒNG KHÁM GIA ĐÌNH VIỆT ÚC – Theo Nutrition Science News)

Đánh giá post

NHẬN TƯ VẤN MIỄN PHÍ

Nhận ngay tư vấn miễn phí từ đội ngũ chuyên viên của phòng khám gia đình Việt Úc.